print this page

Cơ bản về máy gây mê kèm giúp thở

MÁY GÂY MÊ
Bs. Nguyễn tấn Phước
I. ĐẠI CƯƠNG :
Chức năng căn bản của máy gây mê (Anesthesia Machine) là chuẩn bị một hổn hợp khí để cung cấp cho bệnh nhân. Máy thở giúp thông khí áp lực dương cho bệnh nhân. Hệ thống monitoring giúp theo dõi chức năng của hệ thống và những thông tin về bệnh nhân. Kiến thức căn bản về máy gây mê rất cần thiết, giúp người làm công tác GMHS tự tin, cảnh giác nhưng thoải máy khi sử dụng máy đạt hiệu quả điều trị cao nhất.
II. HỆ THỐNG PHÂN PHỐI KHÍ (The gas delivery system) :
A. Cung cấp khí :
1. Khí tường (Piped gases) : Áp lực trung bình 50 – 55 psi (pounds per square inch). Hệ thống ống và đầu cắm theo tiêu chuẩn màu và hình dạng. Cẩn thận thử lại đúng loại khí khi vừa mới xây dựng phòng mổ. DISS (Diameter Index Safety System). Đồng hồ đo áp lực khí vào máy gây mê (pipeline pressure gauge).
2. Bình khí phụ (Cylinder) : Trong trường hợp có vấn đề của nguồn cung cấp khí. Bình oxy áp lực 2,200 psi # 625L. Khí nén áp lực 1,800 psi # 630L.
3. Điều hòa áp lực (Pressure regulators) : Hệ thống điều hòa áp lực bình khí phụ xuống khoãng 45 psi. PISS (Pin Index Safety System)
4. Van kiểm tra ngăn ngừa dò rĩ từ các nguồn khí khác khi không gắn bình khí phụ.
5. Điều hòa áp lực mức hai (Second stage pressure regulator) : Điều hòa áp lực oxy 12 – 16 hay 29 psi (3, 4, 5).
5. Những thiết bị an toàn khi thiếu áp lực oxy cung cấp (Oxygen supply pressure failure safety devices) :
a. Fail-safe valve :
+ Pressure-sensor shut off valve - Ohmeda. Nguyên tắc ngưỡng : Khi áp lực oxy < 20 psi ngưng hoàn toàn cung cấp khí N2O.
+ Oxygen failure protection device – OFPD – NA Drager. Nguyên tắc tỷ lệ : giãm khí N2O và các khí khác dựa vào tỷ lệ áp lực oxy giãm, . Kết quả là làm ngưng sự cung cấp N2O và các khí khác khi áp lực khí oxy < 12 psi (5).
b. Hệ thống báo động thiếu cung cấp oxy (Oxygen supply failure alarm system) : Khi áp lực oxy < 30 psi, hoạt hóa báo động bằng âm thanh ít nhất là 7 giây, khi bật và tắt máy gây mê (5).
CHÚ Ý :
+ Kiểm tra khí trong tường trước khi sử dụng, tránh nhầm lẫn lúc xây dựng. Hệ thống chống nhầm lẫn màu và hình dạng ổ cắm.
+ PISS Hệ thống chống nhầm lẫn cho bình khí phụ. Không mở bình khí phụ khi sử dụng nguồn Oxy tường.
B. Van kiểm soát lưu lượng và lưu lượng kế (Flow control valves and flowmeters) : Kiểm soát và đo lưu lượng khí tới vị trí thoát khí chung.
1. Van kim (Needle valve) : Kiểm soát lưu lượng của từng loại khí. Nhằm giãm áp lực khí xuống gần bằng áp lực khí quyễn (1).
2. Lưu lượng kế (Flowmeter) : Ống Thorpe. Mỗi loại khí có một lưu lượng kế và phao riêng.
Phao dài đọc ở đỉnh, phao dạng tròn đọc ở vị trí trung tâm. Phao dài có khía để giữ sự ổn định khi lơ lững.
Bộ phận chặn phao phía trên giúp không tắc nghẽn khí ra khỏi lưu lượng kế và giúp quan sát phao khi ở vị trí cao nhất. Bộ phận chặn phao phía dưới giúp giữ phao ở vị trí trung tâm khi ngắt lưu lượng kế (6).
Lưu lượng kế Oxy luôn luôn ở cuối dòng để tránh hiện tượng dò rĩ khí gây ra cung cấp khí ít oxy cho bệnh nhân. Mức thấp nhất của oxy từ 150 – 200 ml/p.
Nút vặn (Control knob) oxy có khía, lồi ra và lớn hơn các nút khác, các nút có thanh chắn tránh chạm làm thay đổi thông số (1, 2, 3,4, 5, 6) các nút đều được phân biệt dựa vào màu sắc và tên từng loại khí (4). Mỗi khí có 2 ống và 1 van, ống thứ nhất cho phép đo chính xác lưu lượng thấp < 1 L/p, ống thứ hai có lưu lượng 10 – 12 L/p.
C. Bình bốc hơi (Vaporizer) :
Nguyên tắc hoạt động của bình bốc hơi là cho một phần của luồng hổn hợp khí qua buồng bốc hơi và quay trở lại vòng lưu lượng chính. Nồng độ tùy thuộc vào lượng khí đi qua buồng bốc hơi.
Có hệ thống bù trừ cho sự thay đổi nhiệt độ khi bốc hơi. Bình bốc hơi hoạt động chính xác trong khoảng nhiệt độ + 15 - + 35oC.
Có hệ thống chống nhầm lẫn khi đổ thuốc mê vào bình do mỗi bình chỉ bốc chính xác cho một loại thuốc mê. Cơ chế khóa làm đầy với thuốc mê đặc hiệu (agent-specific keyed filling mechanism) : Dụng cụ làm đầy với thuốc mê đặc hiệu (agent-specific filling device) và bình thuốc mê với cổ bình với thuốc mê đặc hiệu (agent-specific collar).
Vị trí bình bốc hơi nằm giữa đồng hồ lưu lượng và vị trí thoát khí chung tránh nguy cơ gây ngộ độc thuốc khi sử dụng oxy khẩn.
Khóa liên động giúp chỉ sử dụng được một loại thuốc mê trong một thời điểm.
Vị trí các bình bốc hơi : Dựa vào áp lực bay hơi và độ mạnh của thuốc mê, vị trí các bình bay hơi nên sắp xếp theo thứ tự từ đầu nguồn đến cuối nguồn : Sevoflurane, Isoflurane, Halothane. Nếu không có hệ thống khóa liên động.
Không làm nghiêng bình vì thuốc mê tràn vào phần khí bắt cầu dể gây ngộ độc do quá liều (2, 3, 4, 5,6).
D. Van kiểm tra (check valve) : Nằm dưới nguồn của bình bốc hơi tránh hiện tượng dội ngược khí mê (pumping effect) khi dùng máy thở hay nguồn oxy khẩn gây ngộ độc do quá liều. Một số bình bốc hơi có hệ thống chống dội ngược khí, không cần van kiểm tra này.
E, Vị trí thoát khí chung (Common gas outlet) :
Là nơi khí thoát ra khỏi máy gây mê, có ống cung cấp khí nối qua hệ thống thở. Có thiết bị giữ dạng thanh hay thiết bị giữ với lò xo và móc.
F. Oxy khẩn (Oxygen flush valve) :
Cung cấp oxy 100% với áp lực 45 – 55 psi và lưu lượng 40 – 60L/phút. Dể gây chấn thương do áp lực khi bệnh nhân được đặt NKQ.
CHÚ Ý :
+ Máy gây mê không thẳng đứng sẽ làm sai lệch kết quả của lưu lượng kế, và nồng độ bốc hơi thuốc gây mê (4, 5).
+ Khi hư một thành phần : Ống khí, phao, thang đo khí thì phải thay toàn bộ một khối.
+ Oxy khẩn dể gây tổn thương áp lực, đặt biệt khi đang thở máy (thì hít vào) (2) hay nối với ống NKQ. Nếu bình bốc hơi đặt sau ống thoát khí chung sẽ gây ngộ độc thuốc mê (5).
+ Bình bốc hơi không được châm quá đầy, không được nghiêng bình khi di chuyển, đậy chặt nắp bình tránh dò rĩ.
+ Nếu nghi ngờ thuốc tràn đầy bình bốc hơi phải được đuổi sạch bằng cách cho oxy qua với vận tốc 10 L/p, không dùng oxy khẩn, bình bốc hơi đặt ở nồng độ tối đa (5, 6).
III. HỆ THỐNG THỞ (Breathing systems) :
Thường sử dụng hệ thống đường vòng. Hệ thống T (Mapleson D và F) được sử dụng cho trẻ vì kháng lực thấp và khoảng chết nhỏ.
A. Hệ thống đường vòng (The circle system) : Có bình vôi để tránh hít vào khí CO2 của khí thở ra. Giúp sử dụng lưu lượng thấp, tiết kiệm thuốc mê bốc hơi và giữ ấm và ẩm khí lưu thông. Hệ thống bao gồm bình vôi, 2 van một chiều, ống nối Y, bóng dự trữ, van điều chỉnh giới hạn áp lực.
1. Bình vôi (Carbon dioxide absorber) : Sodalime hay Baralyme. Khi gắn kết với CO2 hình thành CaCO2 phóng thích nhiệt và nước. Chỉ thị màu làm thay đổi màu vôi giúp nhận biết vôi đã hết hấp thu CO2. Thay bình vôi khi đã đổi màu từ 25% – 50%.
2. Van 1 chiều (One-way valves or unidirectional valves) : Hít vào và thở ra nhằm tránh hít lại khí thở ra chưa đi qua bình vôi.
3. Ống nối Y ( Y-piece adaptor) : Nối hai nhánh hít vào và thở ra tới bệnh nhi.
4. Bóng dự trữ và van APL (Reservoir bag and Adjustable Pressure Limiting valve) : Đặt ở vị trí nhánh thở ra. Bóng dự trữ tích lũy khí giữa những lần hít vào. Dùng để theo dõi khi bệnh nhân tự thở và giúp thở bằng tay. Sơ sinh : 500 ml, 1 – 3 tuổi : 1L, hơn 3 tuổi : 2L. van APL được sử dụng để kiểm soát áp lực trong hệ thống thở và cho phép khí dư thoát ra ngoài. Cho phép điều chỉnh áp lực mở hoàn toàn , cho bệnh nhân tự thở, 1 – 3 cm nước, và đóng hoàn toàn > 75 cm nước. Chú ý khi giúp thở bằng tay phải cẩn thận áp lực do van đóng hoàn toàn hay một phần.
B. Hệ thống T : Là hệ thống hít lại chỉ có một nhánh. Lưu lượng khí sử dụng 2 – 3 lần thông khí phút để tránh hít lại khí thở ra khi bệnh nhân tự thở.
1. Mapleson D : Hệ thống nữa kín có bóng dự trữ và van điều chỉnh giới hạn áp lực.
2. Bain : Là Mapleson D có hai ống dẫn khí hít vào và thở ra đồng trục. Khí hít vào được sưỡi ấm bởi khí thở ra. Kiểm tra dò rĩ trước khi sử dụng được mô tả bởi Petrick. Bịt đầu ra của hệ thống Bain và cho lưu lượng khí lớn vào làm đầy bóng dự trữ. Mở đầu ra, vặn oxy khẩn. Hiệu ứng Venturi hút khí trong ống thở ra làm xẹp bóng. Nếu có dò rĩ, khí sẽ thoát từ ống hít vào và không làm xẹp bóng dự trữ (6).
3. Mapleson F : Jackson-Rees cải tiến của Ayres T-piece hay Mapleson E rất hữu ích ở trẻ em và sơ sinh. Bóng dự trử ở cuối ống thở ra. Giúp thở bằng tay có thể cảm nhận được sức đàn hồi của phổi bệnh nhi. Người làm gây mê lúc nào cũng phải gần bên bệnh nhân khi giúp thở (2).
CHÚ Ý :
+ Lưu lượng khí = 2 – 3 lần thông khí phút. Tránh tình trạng hít lại khí thở ra khi sử dụng hệ thống Mapleson.
+ Không được sử dụng hệ thống đường vòng để trẻ dưới 20 Kg tự thở. Dẫn đến suy hô hấp do kháng lực đường thở cao.
+ Chú ý van APL phải mở đúng áp lực khi giúp thở bằng tay.
IV. MÁY GIÚP THỞ (Ventilator) :
A. Máy giúp thở theo quy ước sử dụng bóng giúp thở xẹp xuống trong hộp kín. Được vận hành bằng oxy hay khí nén. Sử dụng máy lưu lượng có chu kỳ thời gian. Dò rĩ bong giúp thở gây ra chấn thương do áp lực do khí vận hành có áp lực cao (2).
B. Máy thở lưu lượng : Đưa một lượng thể tích khí thường lưu bất chấp những thay đổi về sức đàn hồi của phổi. Dễ gây tổn thương do áp lực.
C. Máy thở áp lực : Ít gây tổn thương do áp lực, đặc biệt ở trẻ em và bệnh nhân có bệnh phổi.
D. Những máy thở hiện đại với nhiều kiểu thở phức tạp : Áp lực dương cuối kỳ thở ra (PEEP), Kiểm soát áp lực (Pressure control), Nâng đở áp lực (Pressure Support), Thở áp lực dương ngắt quãng đồng bộ (Synchronized Intermittent Mandatory Ventilation- SIMV), và Hô hấp đảo ngược (Inverse ratio ventilation).
CHÚ Ý :
+ Thủng bóng máy giúp thở dể gây chấn thương áp lực. Do sự dò rĩ khí từ bộ phận khí nén sang khí thở của bệnh nhân (bóng treo đi xuống khi thở ra).
+ Bóng máy giúp thở đặt không đúng vị trí gây dò rĩ, dẫn đến việc thông khí không hiệu quả. Phát hiện nhờ vào hệ thống đo nồng độ oxy khí hít vào (tăng hay giãm đột ngột).
+ Sút đường ống có thể xãy ra, nhiều nhất là ở ống nối Y, ở trẻ em do gắn capnograph. Phát hiện nhờ sự cảnh giác của người làm GMHS. Hệ thống báo động áp lực, với giới hạn báo động < 5 cm H2O so với áp lực đỉnh hít vào (PIP : Peak Inspiratory Pressure) (6). Hệ thống báo động thể tích, với giới hạn báo động trên vả dưới gần với thể tích khí thở ra. Capnograph rất hiệu quả để theo dõi sự toàn vẹn của hệ thống ống thở (6).
+ Tắt nghẽn đường thở : Xoắn ống NKQ, tắt hệ thống dẫn khí thải, lọc phổi ở đường ống thở ra. Phát hiện nhờ hệ thống theo dõi áp lực.
+ Van giãm áp máy thở hư hỏng hay hệ thống hút khí thải quá mạnh ảnh hưởng tới áp lực khí trong đường thở. Thông khí không đủ hoặc chấn thương áp lực (6).
V. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM AN TOÀN :
Các báo động đều thể hiện bằng âm thanh (nghe) và trên màn hình (nhìn).
A. Báo động oxy bằng âm thanh : Đặt ở hệ thống áp lực cao. Tiếng còi khi áp lực oxy > 0 và < 25 psi.
B. Van an toàn khi thiếu oxy (fail safe valve). Đặt ở hệ thống áp lực cao của đường N2O, mở van khi áp lực oxy < 25 psi làm tắc đường cung cấp N2O (1, 4). Xem phần II.A.5.
C. Kiểm soát tỷ lệ Oxy : Hệ thống nối cơ học giữa các nút vặn của lưu lượng kế oxy và N2O, không cho phép đặt tỷ lệ oxy hít vào < 25% (1).
D. Báo động áp lực :
1. Báo động áp lực thấp : Khởi động khi áp lực trong hệ thống dưới áp lực khí quyển hay không có áp lực. Xãy ra khi sút ống trong hệ thống hay có dò rĩ lớn, lúc tắt máy gây mê cuối ngày làm việc. Áp lực trong hệ thống âm do máy hút khí thải bị trục trặc hay bệnh nhân hít vào nhưng bị tắc nghẽn.
2. Báo động áp lực cao : Tùy người đặt : Xãy ra khi tắc nghẽn ở trong hệ thống ống hay ống NKQ, hoặc thay đổi compliance phổi.
3. Báo động áp lực liên tục : Khi áp lực trong hệ thống tăng liên tục kéo dài vài giây. Đóng van APL, van giãm áp trục trặc, hay tắc nghẽn đường hút khí thải.
VI. HỆ THỐNG THẢI KHÍ (Scavenging system) :
Hệ thống khí thải cho phép đưa khí thải ra khỏi phòng mổ hay được xử lý trước khi thải ra môi trường. Nồng độ thuốc mệ trong môi trường phòng mổ không được vượt quá 2 ppm (parts per million).
A. Hệ thống thu khí (Collecting system) : Nhận khí thải từ van APL, van thở ra của máy thở, bộ phận phân tích khí mê.
B. Hệ thống thuyên chuyển (Transfer system) : Là những ống nối hệ thống thu khí và hệ thống nhận khí.
C. Hệ thống nhận khí (Receiving system) :
1. Hệ thống mở : Gồm một hộp dự trử để hở ra khí quyển ở một đầu. Một hệ thống hút trong hộp dự trử hút khí thải ra ngoài.
2. Hệ thống kín : Gồm một bóng dự trử có các van giãm áp lực dương và âm để duy trì áp lực trong bóng trong phạm vi chấp nhận được.
D. Hệ thống thải (Disposal system) :
1. Hệ thống thụ động : Gồm các ống đường kính lớn dẫn khí thải ra mội trường bên ngoài.
2. Hệ thống chủ động : Ở các bệnh viện lớn, được thực hiện bởi hệ thống hút chân không, bơm, hay các hệ thống Venturi.
CHÚ Ý :
+ Tắt nghẽn đường dẫn khí thải gây tổn thương áp lực.
+ Áp lực hút quá cao gây tắt van giãm áp máy thở gây chấn thương áp lực.
VII. PHÂN TÍCH KHÍ (Gas analysis) : Theo dõi nồng độ oxy, CO2, các khí mê trong hệ thống thở.
1. Masscspectrometry : Khí mê được trích ra từ ống nối Y và tới phòng trung tâm phân tích kết quả. Phân tích cho nhiều phòng mổ, kết quả nhanh.
2. Phân tích bằng tia hồng ngoại (Infrared analysis) : Không sử dụng theo dỏi oxy.
3. Phân tích oxy :
a. Polarographic oxygen analyzers :
b. Galvanic hay fuel cell analyzers :
c. Paramagnetic analyzers :
VIII. NHỮNG PHẦN PHỤ KHÁC :
1. Những phương tiện thông khí áp lực dương : Bóng tự phồng (self-inflating bag).
2. Dụng cụ làm ẩm :
a. Làm ẩm bằng nước (Water bath humidifier) : Nguy cơ nhiệt độ tăng quá cao.
b. Làm ẩm bằng ngưng tụ (Condenser humidifier) : Làm tăng kháng lực đường thở, có thể lọc được vi trùng, virus. Chọn tùy vào cân nặng trẻ.
3. Van PEEP (Possitive End Expiratory Pressure) : Được gắn vào đường khí thở ra.
4. Hệ thống quản lý thông tin vi tính hóa (Computerized information management systems) : Phiếu gây mê điện tử giúp không còn ghi chép, thu nhập và truy xuất dữ liệu qua kết nối mạng, kết nối Internet truy cập mạng toàn cầu trong lúc làm việc để trao đổi, tìm thông tin, …
IX. KIỂM TRA MÁY TRƯỚC KHI GÂY MÊ :
Là động tác bắt buộc trước khi sử dụng máy cho lần gây mê đầu tiên trong ngày. Tùy vào từng loại máy gây mê khác nhau. Đọc kỹ hướng dẫn sử dụng máy (4,5, 6).
X. MÁY GÂY MÊ HIỆN ĐẠI (Anesthesia Work station) :
A. Giao diện điện tử (Electronic interfaces) : Linh hoạt và chính xác để đo lường và thao tác thực hiện các lệnh.
B. Nhiều báo động do hiệu quả an toàn cao hơn.
C. Ít kết nối bên ngoài hơn : Làm giãm nguy cơ sút ống, gắn sai ống, gập ống hay các sự cố khác.
D. Máy tự động kiểm tra (Automated machine self-checkout) : An toàn hơn và đở mất thời gian cho người làm GMHS.
E. Thu nhập dữ liệu tốt hơn bằng hệ thống vi tính.
XI. KẾT LUẬN :
Máy gây mê là một phương tiện hiện đại, phức tạp và đắt tiền, đòi hỏi ngưởi sử dụng phải có kiến thức tối thiểu cũng như các phương tiện cần thiết kèm theo của cơ sở y tế. Máy cần phải được kiểm tra cẩn thận, tỉnh táo cảnh giác trong lúc sử dụng và sử dụng thường xuyên thì mới đạt hiệu quả điều trị tốt nhất.
Tài liệu tham khảo :
1. Greg Ginsburg and Jane C.Ballantyne. The Anesthesia Machine. In : Peter F.Dunn, M.D. Clinical Anesthesia Procedures of the Massachusetts General Hospital. Lippincott Williams & Wilkins. Seventh Edition, 2007. P : 135 – 147.
2. G.Edward Morgan, Jr.,M.D. Maged S. Mikhail, M.D. The Anesthesia Machine. In : G.Edward Morgan, Jr.,M.D. Maged S. Mikhail, M.D. Clinical Anesthesiology. 1996. P : 37 – 49.
3. Jerry A.Dorsch, M.D., Susan E.Dorsch, M.D. Chapter 3 : The Anesthesia Machine. In : Jerry A.Dorsch, M.D., Susan E.Dorsch, M.D. Understanding Anesthesia Equipment. Construction, Care and Complications. William & Willkins. Third Edition. 1994. P : 51 – 90.
4. J. Jeff Andrews. Chapter 22 : Delivery Systems for Inhaled Anesthetics. In : Paul G Barash et.al, Kelley et.al., Silverman et.al. The Lippincott-Raven Interactive Anesthesia Library on CD-ROM Version 2.0. 1997.
5. James B.Eisenkraft. Anesthesia Delivery System. In : David E.Longnecker, M.D., John H. Tinker, M.D., G.Edward Morgan, Jr., M.D. Principles and Practice of Anesthesiology. Mosby. Second Edition. 1998. P : 1011 – 1063.
6. J. Jeff Andrews. Inhaled Anesthetic Delivery Systems. In : Ronald D. Miller, M.D. Anesthesia. Churchill Livingstone. Fifth Edition. 2000. p : 174 – 206.

0 nhận xét

Nguyên lý cấu tạo máy thở (ST)

Các máy thở đều dựa vào nguyên lý tạo ra chênh lệch áp lực nhằm đưa khí vào trong và ra ngoài phổi của bệnh nhân để thực hiện quá trình thơng khí.

Máy thở là thiết bị y tế tinh xảo, được dùng rộng ri để hỗ trợ sự sống cho các bệnh nhân nặng, đặc biệt là các bệnh nhân nằm trong khoa Điều trị Tích cực. Do vậy máy thở có cấu tạo rất phức tạp, tuy nhiên chúng đều có các đặc điểm chung. Khi nắm bắt được nguyên lý cấu tạo của my thở, các bác sỹ là đặc biệt là các bác sỹ hồi sức sẽ tự tin hơn trong vận hành máy thở, đạt hiệu quả hơn trong thông khí nhân tạo.
Cách tạo áp lực
Các máy thở đều dựa vào nguyên lý tạo ra chênh lệch áp lực nhằm đưa khí vào trong và ra ngoài phổi của bệnh nhân để thực hiện quá trình thơng khí. Để tạo ra chênh lệch áp lực áp lực này, các máy thở có thể sử dụng áp lực dương, áp lực âm hoặc phối hợp cả hai.
Các máy thở áp lực âm tạo ra áp lực âm ngoài lồng ngực. Áp lực âm ngoài lồng ngực làm nở thành ngực ra và không khí đi vào phổi bệnh nhân. Các loại máy thở này có vẻ rất sinh lý nhưng rất khó kiểm soát thông khí cho bệnh nhân và có nhiều hạn chế. Điển hình cho loại máy thở này là “phổi thép” (“iron lung”).
Các máy thở áp lực dương tạo ra áp lực dương bên trong phổi, làm căng và nở phổi ra. Các loại máy thở này tạo ra áp lực dương trong lồng ngực, ngược với sinh lý. Tuy vậy đây là loại máy được dùng phổ biến trong các khoa
Điều trị Tích cực vì nó cho phép các bác sỹ hồi sức can thiệp mạnh và kiểm soát tốt hơn thông khí của bệnh nhân.
Ở loại này người ta còn phân chia chúng thành các máy thở thể tích, áp lực và kết hợp giữa thể tích và áp lực.
Các máy thở phối hợp áp lực tạo ra áp lực dương trong phổi và áp lực âm ngoài lồng ngực. Việc phối hợp này làm giảm đi áp lực dương trong lồng ngực, hạn chế được nhiều nhược điểm của thông khí nhân tạo áp lực dương.
Tuy nhiên hiện tại mới chỉ có máy Engstrom 150 sử dụng phương pháp này nhưng hiệu quả còn rất thấp.
Năng lượng
Các máy thở có thể sử dụng nguồn năng lượng điện (năng lượng = điện thế x cường độ xthời gian) hoặc sử dụng nguồn năng lượng khí nén (năng lượng = áp lực x thể tích)
Năng lượng điện
Một số máy thở sử dụng điện xoay chiều để hoạt động. Hầu hết các máy thở loại này dùng điện để chạy môtơ của quạt thổi, piston. Một số máy hiện đại sử dụng nguồn điện để chạy máy tính, giúp điều khiển hoạt động của máy thở. Một số máy còn có hệ thống ắc-qui hoặc pin sạc, và do vậy máy có thể hoạt động được trong điều kiện không có điện lưới, mất điện hoặc khi vận chuyển bệnh nhân.
Năng lượng khí
Một số máy sử dụng khí nén để chạy máy. Các loại máy thở chạy hoàn toàn bằng khí nén chủ yếu là các máy thở cũ (Bird Mark 7, Bird Mark 8, PR2...). Các máy được vận hành bằng khí nén đều có van giảm áp, đảm bảo máy hoạt động liên tục trong điều kiện áp lực khí nén trong đường ống dẫn không đảm bảo. Các máy chạy hoàn toàn bằng khí nén thường được sử dụng trong quân y, và vận chuyển bệnh nhân. Ngòai ra có một số máy thở sử dụng hiệu ứng gây ra khi có dạng khí chảy tốc độ cao (hiệu ứng Venturi) để tạo năng lượng chạy máy thở (fluidic ventilator). Các máy thở loại này (fluidic) có thể được sử dụng trong các phòng chụp MRI. 
Kết hợp năng lượng khí và điện
Hiện nay các máy thở hiện đại được sử dụng trong các khoa Điều trị Tích cực thường kết hợp cả điện và khí nén để hoạt động. Các loại máy này thường dùng 2 nguồn khí nén (ôxy và khí trời) để tạo nên dịng khí thì thở vào. Tốc độ hình dạng dịng khí thở vào được điều khiển bằng máy tính. 
Hệ thống vận hành khí
Hệ thống vận hành khí là hệ thống sinh ra áp lực dương, tạo nên thì hít vào. Hiểu được hệ thống vận hành khí, chúng ta dễ dàng hiểu được đặc điểm của kiểu dịng thở vào, hiểu được đường cong áp lực và tỷ lệ I/E...Có thể dùng trực tiếp khí nén hoặc gián tiếp thông qua các piston, motor để tạo nên áp lực dương.
Khí nén và van giảm áp (PB 7200, PB 840; Servo 900, Servo 300; Evita 2 dura, Evita 4; N.M. Systems Graph; Galileo; Engstrom Erica IV).
Các loại máy dùng khí nén làm hệ thống vận hành khí thường sử dụng van giảm áp. Sau đó mỗi một loại máy có các cách khác nhau để đưa khí vào tới bệnh nhân. Hầu hết các máy (PB 7200, PB 840, Evita 2 dura, Evita 4,Servo 300....) đều trực tiếp sử dụng khí nén (khí ôxy và khí trời) để đưa thẳng tới bệnh nhân sau khi đã thực hiện trộn ô xy với khí trời. Servo 900 lại dùng khí nén để nén lực cho một lò xo, sau đó lực lò xo này sẽ nén đàn xếp chứa khí trộn đưa khí tới phổi bệnh nhân. Một số loại máy khác như máy Engstrom Erica 4 lại dùng khí nén để nén túi chứa khí trộn.
Ưu điểm: Hệ thống vận hành khí hoạt động trực tiếp dưới tác dụng của khí nén, nên khả năng tạo áp lực dương rất nhanh, nhậy và mạnh. Các máy này có thể thở PC rất tốt. Một ưu điểm đáng kể khác là máy chạy rất êm không gây ra tiếng ồn.
Nhược điểm: Các máy thở loại này đều đòi hỏi khí nén và ô xy trung tâm. Nếu không có khí nén thì bắt buộc máy phải có thêm hệ thống khí nén đi kèm. Chính 2 điều này làm cho giá máy cao hơn rất nhiều so với các loại máy khác
Quạt thổi (T-Bird, Esprit...)
Các máy thở loại này dùng quạt thổi tốc độ cao để tạo ra áp lực dương của hệ thống vận hành khí. Các loại máy dùng quạt thổi không cần tới khí nén, nên có thể sử dụng ở những nơi không có khí nén trung tâm. Tốc độ quạt thổi có thể được điều khiển bằng máy tính nên có thể tạo nên các dạng dòng khí thở vào khác nhau như dạng vuông, dạng giảm dần, dạng hình sin. Tuy vậy quạt thổi rất dễ hỏng do phải hoạt động liên tục ở mức độ cao.                                                    
Piston (Acoma, PB 740, PB 760, Lifecare 100 và 102, Emerson 3-PV, Emerson IMV, MA-1, Bear 2, Sechrist 2200).
Các máy thở loại này dùng piston để tạo ra áp lực dương cho hệ thống vận hành khí. Nhóm này được chia ra làm 2 loại tuỳ theo kiểu piston.
Piston trục thẳng (Linear piston): loại máy thở sử dụng piston trục thẳng thường tạo ra dạng khí thở vào có tốc độ cố định (dạng vuông) và do vậy làm tăng dần áp lực trong đường thở bệnh nhân.
Gần đây một số máy (PB 740, 760) sử dụng chất liệu mới có độ ma sát thấp để sản xuất piston và xylanh, do đó không cần một lực mạnh để di chuyển piston. Đồng thời tốc độ di chuyển của piston được điều khiển bằng máy tính, nên một số máy có thể tạo ra các dạng dòng thở vào khác như giảm dần, hình sin.
Piston trục cam (Rotary piston): Các máy thở sử dụng piston trục cam sẽ đẩy khí theo kiểu hình sin tạo nén một thì hít vào gần sinh lý hơn so với kiểu dạng hình vuơng. Điển hình cho loại này là Lifecare 100 v 102.                                                
Các máy thở sử dụng piston thường được lựa chọn cho những nơi không có khí nén, trong vận chuyển bệnh nhân.                                                                                    
Hệ thống điều khiển
Gồm có 2 loại: Hệ thống điều khiển mở (open-loop) và hệ thống điều khiển kín (close-loop). Hệ thống điều khiển mở là hệ thống điều khiển các hoạt động của máy thở nhưng không kiểm tra hiệu quả của các hoạt động đó. Ví dụ một máy thở được đặt thông số Vt = 500 ml, và máy thở sẽ đưa vào phổi bệnh nhân 500 ml khí, nhưng nếu đường thở bị hở thì lượng khí vào phổi bệnh nhân không còn đủ 500 ml, nhưng những máy có hệ thống điều khiển mở không phát hiện ra sự thiếu hụt này. Ngược lại hệ thống điều khiển kín vừa thực hiện các hoạt động của máy thở vừa kiểm tra hiệu quả của các công việc đó. Gầy đây một số máy còn có khả năng tự điều chỉnh hoạt động nhằm đạt được các thông số đã được đặt bởi các bác sỹ.    
0 nhận xét

Quy trình kiểm tra và bảo dưỡng máy gây mê kèm thở

1. Kiểm tra máy trước bảo dưỡng:
  •  Ghi lại việc bảo dưỡng hàng ngày của KTV những hư hỏng hay các dấu hiệu bất thường trong quá trình sử dụng.
  •  Kiểm tra cẩn thận tổng quan máy bằng mắt thường
  •  Bật máy cho hoạt động và đánh giá chất lượng.
2. Vệ sinh máy:
  • Vệ sinh toàn máy.
  • Vệ sinh, điều chỉnh giới hạn áp lực van (APL, hoặc Pop-off)
3. Kiểm tra tổng quát :
  • Kiểm tra bề ngoài của máy có hư hỏng gì không.                                    
  • Kiểm tra đầu nối khí y tế và xác định áp lực vừa đủ.
  • Kiểm tra màu của chất hấp thụ CO2
  • Kiểm tra dây thở bệnh nhân và phổi giả.
  • Kiểm tra chuyển động của núm điều khiển các nguồn cấp hơi.

4. Kiểm tra phần điện:
  • Kiểm tra dây nguồn, dây nối và các đầu nối xem có bị hư hỏng gì không
  • Kiểm tra các dây nối và cáp xem an toàn không.
  • Kiểm tra điện áp nguồn cấp cho máy hoạt động.
5. Kiểm tra chức năng:
  • Mở máy cho máy hoạt động và xác định không có gì bất thường.
  • Kiểm tra tất cả các công tắc và núm vặn đều hoạt động bình thường.
  • Kiểm tra áp lực khí và O2 có đạt không.
  • Kiểm tra hoạt động của máy thở trong hệ thống máy gây mê.
  • Kiểm tra màn hình hiển thị, các báo động của nồng độ O2 và áp lực khí.
  • Kiểm tra hệ thống bình và khí bốc hơi gây mê đảm bảo an toàn không.
  • Kiểm tra bằng tay túi thở, độ phồng và chức năng của túi.

6. Kiểm tra vận hành:
  • Cài đặt các thông số cho chế độ thở gây mê 
  • Cài đặt các giới hạn báo động cho mode thở.
  • Kiểm tra máy bằng phổi giả và xác nhận không có gì bất thường.

7. Bàn giao cho đơn vị sử dụng:
  • Cho tiến hành chạy thử, đánh giá chất lượng máy so với trước và sau khi bảo dưỡng.
  • Ghi lại các thông số kỹ thuật và quá trình bảo dưỡng vào sổ lưu.
  • Bàn giao cho đơn vị sử dụng. Có xác nhận của người trực tiếp sử dụng hoặc trưởng, phó khoa phòng.

0 nhận xét

FiO2: Nồng độ oxy trong hỗn hợp khí thở vào

  • FiO2 (fraction of inspired oxygen)
–         FiO2 là thuật ngữ y học chỉ nồng độ oxy trong hỗn hợp khí thở vào (fraction of inspired oxygen).

–         Chỉ định:
Thở thêm oxy tức liệu pháp oxy (tăng FiO2) được chỉ định trong nhiều bệnh và ở một số bệnh nhân (nhất là sau mổ) giúp đề phòng và điều trị thiếu oxy máu (do tăng áp lực riêng phần oxy trong phế nang làm tăng tốc độ khuyếch tán oxy từ đó vào mao mạch phổi). Thở thêm oxy không điều trị được căn nguyên mà chỉ giúp cải thiện mức oxy trong máu động mạch. Một số nghiên cứu gần đây thấy thở oxy làm giảm tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ và giảm nôn, buồn nôn sau mổ.

–         Điều chỉnh FiO2:
FiO2 thay đổi từ 0 (0%) đến 1 (100%). FiO2 trong không khí là 0.21 (21%). Ở trên cao, FiO2 vẫn là 0.21 nhưng vì áp lực khí quyển giảm nên áp lực riêng phần oxy (FiO2 ´ áp lực khí quyển) cũng giảm, dẫn đến thiếu oxy máu.
FiO2 trong máy thở được đặt và đo chính xác bằng bộ vi xử lý. Trong liệu pháp oxy, bệnh nhân tự thở nên hít cả oxy lẫn khí trời, dẫn đến FiO2 thay đổi qua các dụng cụ thở oxy và lưu lượng oxy:

–         Các nguyên tắc dùng oxy liệu pháp:
+  Trừ khi suy hô hấp nặng, luôn bắt đầu dùng hệ thống đơn giản nhất.
+ Các mặt nạ, nhất là mặt nạ có túi dự trữ oxy, chỉ được dùng ở bệnh nhân rất thiếu oxy máu nhưng tự thở tốt.
+ Kiểm soát hiệu quả thở oxy bằng đo bão hoà oxy máu ngoại vi (SpO2) hoặc áp lực riêng phần oxy máu động mạch (PaO2). Điều chỉnh lưu lượng oxy sao cho SpO2 ≥ 94% hoặc PaO2 ≥ 70 mmHg.
+ Theo dõi hiệu quả và sự dung nạp oxy liêuk pháp dựa trên tình trạng tri giác, nhịp tim, nhịp thở và khí máu.
+ Ở bệnh nhân có bệnh phế quản phổi tắc nghẽn mạn tính hoặc hen, luôn bắt đầu bằng lưu lượng oxy thấp 1-2 lít/phút để đề phòng ưu thán và toan hô hấp do oxy ức chế thở.
+ Không dùng oxy làm nguồn áp lực tạo khí dung.
+ Khí thở vào có thể không cần làm ấm và ẩm nếu dùng < 6 lít/phút ở người lớn nhưng luôn cần làm ấm và ẩm ở trẻ em.
+ Các bộ phận khí dung và làm ẩm là nguồn gây nhiễm trùng phổi nặng nên cần dùng một lần hoặc được tiệt trùng bảo đảm.
–         Các biến chứng của oxy:
+ Xẹp phổi do hấp thu oxy trong phế nang
+  Cháy nổ
+  Giảm thông khí gây ưu thán
+  Giảm hoạt động làm sạch của niêm mạc nhày đường thở khi tiếp xúc lâu với FiO2 > 50% (giảm hoạtđongj 40% khi tiếp xúc 9 giờ với FiO2 70%).
+  Viêm khí phế quản (đau sau xương ức, ho, thở nhanh) khi tiếp xúc > 12 giờ với FiO*2* cao.
+ Loạn sản phế quản phổi và xơ hoá võng mạc ở trẻ sơ sinh
+  Rối loạn chức năng thần kinh trung ương khi thở oxy cao áp
+  Ngộ độc oxy phổi do xơ phổi kẽ làm thiếu oxy máu nặng thêm khi thở FiO2 > 50% kéo dài trên 48 giờ.
  • SpO­2 = Saturation of Peripheral Oxygen: >90% (94-100%)
Tỷ lệ HbO2/ (HbO2+Hb) gọi là độ bão hòa oxy trong  máu SpO2, nói cách khác là tỷ lệ phần trăm hemoglobine của máu kết hợp với Oxy.
Đo bão hoà oxy máu dựa vào nguyên lý là hemoglobin gắn oxy (oxyhemoglobin: HbO2) và hemoglobin khử (deoxyhemoglobin) khác nhau về sự hấp thụ các dải bước sóng hồng ngoại. Do vậy, thay đổi về hấp thụ ánh sáng trong các nhịp đập của động mạch là cơ sở của đo độ bão hoà oxy. Tỷ lệ hấp thụ các dải bước sóng hồng ngoại khác nhau được một bộ vi xử lý phân tích để cho mức bão hoà oxy (SpO2) và nhịp đập của động mạch được xác định bằng đo thay đổi thể tích máu trong lòng mạch.
SpO2 có mối tương quan chặt chẽ với SaO2 (bão hoà oxy đo bằng xét nghiệm khí máu động mạch). Đường biểu diễn sự phân ly oxy-hemoglobin tức mối tương quan giữa SpO2 và áp lực riêng phần oxy máu động mạch (PaO2) có dạng xích ma. SpO2 < 90% tương ứng với PaO2 < 65 mmHg nhưng SpO2 99-100% thì không rõ PaO2 là bao nhiêu trong khoảng 100-500 mmHg.
  • PaO(pressure of arterial oxygen) :phân áp oxy máu động mạch:
    – Bình thường ở người trẻ, người trưởng thành PaO2 = 85 – 100mmHg, chiếm 95 – 98% tổng lượng oxy có trong máu.
    – PaO2 tăng: khi áp lực riêng phần O2 máu phế nang tăng.
    – PaO2 giảm: do giảm thông khí, giảm khuếch tán và mất cân bằng tỷ lệ Va/Q (thông khí/lưu lượng máu).
  • SaO2(arterial oxygen saturation): độ bão hòa oxy chức năng (functional oxygen saturation):
    – SaO2 là dạng kết hợp của oxy với hemoglobin.
    – Bình thường: SaO2 = 95 – 97% (95 – 99% nếu pH = 7,38 – 7,42; PaO2= 97%, PaCO2 = 40 mmHg).
    – Khi SaO2 giảm, nhỏ hơn 50% thì ái lực gắn của oxy với Hb giảm mạnh.

–>  Tóm lại
FiO2 (fraction of inspired oxygen):  nồng độ oxy trong hỗn hợp khí thở vào (quan tâm đến việc thở Oxy bao nhiêu cho phù hợp) (0-100%)
SpO2(Saturation of Peripheral Oxygen): (94% – 100%) Độ bão hòa Oxy máu ngoại biên (mao mạch) (được đo gián tiếp bằng mạch đập) có mối liên quan với SaO2, thường được sử dụng tuy nhiên trong những trường hợp BN shock, Hb thấp, HA tâm thu thấp , SHH nặng thì SpO2 ít có giá trị, cần làm khí máu động mạch
SaO2(arterial oxygen saturation) (>94%) : Độ bão hòa Oxy trong máu động mạch (đo bằng khí máu động mạch)
PaO2 (pressure of arterial oxygen) (85-100 mmHg): áp lực riêng phần Oxy máu động mạch, khác với SpO2 và SaO2 là PaO2: cho biết lượng Oxy có trong máu (tạo ra 1 áp lực) (hòa tan trong máu – khả năng lấy Oxy từ môi trường của hệ hô hấp) còn 2 thông số kia cho biết về Oxy gắn với Hb (bão hòa), tức là đôi khi áp lực Oxy trong máu lớn nhưng không phải lúc nào cũng gắn đượcvới Hb chẳng hạn.

Spo2 is hemoglobin saturation, pao2 is plasma saturation
Edit: SpO2 is the Saturation (peripheral) of Haemoglobin with Oxygen, expressed as a percentage ration compared to fully saturated Haemoglobin (Hb).
i.e. when the Haemoglobin (the main oxygen carrying component of blood, found in red blood cells) is fully loaded with oxygen, then is it 100% saturated. It is SpO2, because this is normally measured by placing a probe on the finger which shines red light of two different types through the finger, and a calculation is carried out based on how much of each type of light is absorbed, which tells us how much the Hb is loaded up or saturated.
PaO2 is the Partial pressure (arterial) of oxygen in the blood. That is, if you took the oxygen gas in all the blood, and put it into a box by itself, what pressure would it exert on the walls. This is normally measured by using a special probe which uses electric currents to determine how much oxygen is actually present in the blood. It is normally expressed in mmHg (millimetres of Mercury), or (more commonly outside the USA) as kPa (kilopascals), which are units of pressure. 1 atmosphere of pressure is roughly 101kPa, which is roughly 760 mmHg or 760 Torr, which is roughly 1 bar. There are more precise values available on the internet for these.
Whilst SpO2 and PaO2 are closely related, they do not actually measure the same thing.
0 nhận xét
 
Copyright © 2016 - 2017. SỬA CHỮA-BẢO DƯỠNG THIẾT BỊ Y TẾ [TL] - All Rights Reserved. Mẫu cung cấp bởi KS-Bích .